Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ Hoàn cảnh lịch sử: Từ tháng 9/1945, chính quyền cách mạng được thiết lập trên cả nước nhưng ở tình thế hiểm nghèo trước giặc đói, giặc dốt và nguy hiểm nhất là giặc ngoại xâm. Với chủ trương kiên quyết, khéo léo, mềm dẻo, Đảng đã đưa đất nước vượt qua Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,, Free Download PDF, Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tích cực lãnh đạo nhân dân Việt Nam từng bước chuẩn bị nổi dạy giành độc lập, tự do cho dân tộc. trong quá trình chuẩn bị, cách mạng Việt Nam đã trải qua SCG Việt Nam tuyển dụng [SCG - CRVC] - Nhân viên Kinh Doanh- Ngói lương cao, phúc lợi hấp dẫn, môi trường chuyên nghiệp. Ứng tuyển ngay tại CareerBuilder! VIỆT NAM PHỤC HỒI KINH TẾ - Báo Người Lao Động cập nhật tin tức, hình ảnh, Clip thời sự trong nước, quốc tế Mới & Nóng nhất về chủ đề VIET NAM PHUC HOI KINH TE Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam lạc quan về triển vọng phục hồi kinh tế sau giãn cách; Án mạng kinh hoàng . 1 Tìm Hiểu Về Kinh Doanh Theo Mạng2 ĐIỀU KIỆN KINH DOANH THEO PHƯƠNG THỨC ĐA CẤP TẠI VIỆT3 Chương 6 Lịch sử Network Marketing4 Tìm Hiểu Lịch Sử Ngành Kinh Doanh Theo Mạng5 Lịch Sử Kinh Doanh Theo Mạng, Tác Giả Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Ngành Kinh Doanh Theo Mạng6 Kinh doanh theo mạng là gì? Lịch sử ngành kinh doanh theo mạng? Tác giả Ngày đăng 11/05/2021 Đánh giá 776 vote Tóm tắt bạn cần hiểu kỹ lịch sử của ngành kinh doanh theo mạng Kinh doanh theo … Trong khi đó thì ở Việt Nam nhiều người dân khi nghe đến từ “kinh doanh đa 2 ĐIỀU KIỆN KINH DOANH THEO PHƯƠNG THỨC ĐA CẤP TẠI VIỆT Tác giả Ngày đăng 09/08/2021 Đánh giá 357 vote Tóm tắt Vì vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về kinh doanh bán hàng đa cấp để … “Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng Khớp với kết quả tìm kiếm Bên cạnh đó phải thực hiện hoạt động ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tiền ký quỹ là khoản tiền đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp bán hàng đa cấp đối với người tham gia bán hàng … 3 Chương 6 Lịch sử Network Marketing Tác giả Ngày đăng 07/30/2022 Đánh giá 325 vote Tóm tắt là Kinh doanh theo mạng ra đời vào nửa đầu của thế kỷ 20 tại Mỹ. Lịch sử … Renborg từng có 12 năm sống và làm việc cho nhiều công ty Mỹ khác nhau ở Khớp với kết quả tìm kiếm Năm 1939, Carl Renborg đổi tên công ty thành “Nutrilite Products” lấy từ tên sản phẩm, trong khi vẫn giữ nguyên tắc lưu hành sản phẩm thuốc bổ dưỡng này. Nhân viên của ông tự tìm kiếm các đối tác phân phối mới, cung cấp cho họ những thông tin cần … 4 Tìm Hiểu Lịch Sử Ngành Kinh Doanh Theo Mạng Tác giả Ngày đăng 11/26/2021 Đánh giá 497 vote Tóm tắt chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về lịch sử ngành kinh doanh theo mạng trên thế giới cũng như ở Việt Nam Khớp với kết quả tìm kiếm Hàng ngàn công ty đã áp dụng mô hình kinh doanh theo mạng để truyền bá sản phẩm của mình. Các công ty áp dụng phương pháp bán hàng truyền thống như Ford, Colgate, Canon, Coca-cola và nhiều công ty nổi tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp này để … 5 Lịch Sử Kinh Doanh Theo Mạng, Tác Giả Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Ngành Kinh Doanh Theo Mạng Tác giả Ngày đăng 04/22/2022 Đánh giá 574 vote Tóm tắt Năm 1934, Carl Renborg sáng lập ra công ty ” California Vitamins ” và vận dụng mạng lưới hệ thống bán hàng mà trong đó, người tiêu dùng cũng Khớp với kết quả tìm kiếm Làn sóng thứ tư đánh dấu sự bùng nổ của Network Marketing trên toàn cầu. Rất nhiều công ty Network Marketing thành công tại Trung quốc, Hàn quốc, Nhật và “qua mặt” cả các công ty ở Mỹ về tốc độ phát triển. Nửa cuối thập kỷ 90 còn đánh dấu những thay … 6 Kinh doanh theo mạng là gì? Lịch sử ngành kinh doanh theo mạng? Tác giả Ngày đăng 01/25/2022 Đánh giá 200 vote Tóm tắt Kinh doanh theo mạng tiếng anh là Online business. 3. Lịch sử ngành kinh doanh theo mạng – Năm 1736, Leonhard Euler đã tạo ra lý thuyết đồ thị Khớp với kết quả tìm kiếm – Những năm 1980 Khi những năm 1980 bắt đầu, một kỷ nguyên khác của nghiên cứu về mạng và các kích thước hành vi của nó cũng bắt đầu. Một nghiên cứu quan trọng của Phillips, vào năm 1981, đã thách thức vấn đề của những người cung cấp thông tin khác … Có thể bạn quan tâm Bỏ túi 10+ quần jean xám mặc với áo màu gì nam hay nhất Khám phá 6 các chỉ tiêu đánh giá chất lượng mỹ phẩm hay nhất bạn nên biết Bật mí 10 chiến lược marketing của vingroup hay nhất bạn cần biết Khám phá 6 cách trình bày thực đơn đẹp hay nhất bạn nên biết Note ngay 10+ định giá động là gì hay nhất bạn nên biết Nguồn Danh mục Kinh Doanh Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của thời đại công nghệ kĩ thuật số, kinh doanh theo mạng là một trong những hình thức kinh doanh vượt trội hơn hẳn so với các loại hình thức kinh doanh truyền thống. Doanh nghiệp nào cũng muốn lựa chọn con đường khởi nghiệp đúng đắn nhất, hợp với thời đại. Nhưng khái niệm và cách vận hành của loại Kinh doanh theo mạng vẫn chưa phổ biến. Vậy có những thông tin cơ bản nào cho người mới bắt đầu khởi nghiệp lựa chọn hình thức Network Marketing? Hãy để giúp bạn giải đáp. 1. Khái niệm Network Marketing Tại Việt Nam, Network Marketing được dịch ra các tên gọi khác nhau như “Kinh doanh theo mạng”, “Kinh doanh đa cấp”, “Tiếp thị đa tầng”. Các tên gọi trên để chỉ một phương thức bán hàng trực tiếp. Một cơ cấu nhiều tầng bao gồm những cá nhân hoạt động độc lập thực hiện việc tiêu thụ bao gồm bán, phân phối, lưu hành sản phẩm. Những cá nhân này là đối tắc phân phối hàng hóa của công ty, chứ không phải là nhân viên của công ty. Người phân phối có nhiệm vụ giới thiệu sản phẩm tới những người có mong muốn và khả năng mua sản phẩm. Từ kết quả bán hàng, phân phối viên có khoản thu nhập cố định. Hơn nữa, các đối tác hoạt động riêng lẻ này còn mời gọi người khác tham gia vào cơ cấu và làm mạng lưới phân phối cấp dưới của mình, được đặt là downline tuyến dưới. Kinh doanh theo mạng là gì? 2. Lịch sử Network Marketing Kinh doanh theo mạng được ra đời vào nửa đầu thế kỉ XX ở Mỹ. Lịch sử loại hình kinh doanh này gắn liền với tên tuổi doanh nhân người Mĩ Carl Renborg 1887-1973 – người có ý tưởng và phát triển hình thức này với doanh số trên 200 tỷ USD/năm. Sự phát triển của lĩnh vực này có 4 giai đoạn Quá trình thứ nhất 1945-1979 Là giai đoạn sơ khai phi chính thức khi chưa có văn bản cụ thể nào về cơ chế hoạt động này và các cơ quan chức trách lại tỏ ra thờ ơ với các công ty Kinh doanh đa tầng với những quy định không phù hợp. Sau khi Hội đồng Thương mại Liên bang công nhân đây là một ngành kinh doanh hợp pháp thì quá trình này kết thúc. Quá trình thứ hai 1980-1989 Là thời kỳ bùng nổ do chính phủ hỗ trợ. Hàng loạt công ty về các lĩnh vực xuất hiện hoạt động theo mô hình này, thu hút hàng triệu người Mỹ tham gia. Cho đến nay, “Herbalife” vẫn giữ tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới với doanh thu khủng. Tuy nhiên, mô hình còn khá mới nên còn quá khó và phức tạp với công chúng. Quá trình thứ ba 1990-1999 Là giai đoạn phổ cập của mô hình, đánh dấu sự ra mắt như một loại hình kinh doanh nghiêm túc. Công nghệ phổ cập rộng đến công chúng và cũng làm giảm tiền bạc, thời gian cho việc tổ chức cơ cấu. Với những lợi nhuận như vậy, nhiều công ty nổi tiếng áp dụng phân phối theo hàng dọc cũng chuyển sang mô hình đa tầng này. Quá trình thứ tư 2000-hiện nay Đánh dấu sự bùng nổ ở phạm vi toàn cầu. Các tập đoàn lớn đua nhau hợp tác với các mạng lưới phân phối. Các chuyên viên của tạp chí uy tín Wall Street Journal cũng dành những lời khen ngợi với mô hình này. Cùng với E-Commerce Thương mại điện tử, Network Marketing đang tạo nên trào lưu mới trong giới kinh doanh ngày nay. Xem thêm Mô hình kinh doanh thương mại điện tử E-Commerce Lịch sử phát triển Network Marketing Xem thêm Marketing hướng về khách hàng là gì? Nó khác gì so với những quan điểm marketing khác? 3. Đặc điểm của Network Marketing - Bán hàng theo mạng được hiểu là một phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa - Việc tiếp thị bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp bao gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau - Hàng hóa được người tham gia bán hàng theo mạng tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham gia - Người tham gia kinh doanh theo mạng được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia kinh doanh đa cấp cấp dưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp kinh doanh đa cấp chấp thuận - Thông qua mạng lưới tiếp thị doanh nghiêp tổ chức tiếp thị đa tầng sẽ thiết lập được mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng mà không tốn phí các khoản đầu tư thành lập, duy trì mạng lưới phân phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc các đại lý phân phối theo pháp luật thương mại. - Doanh nghiệp kinh doanh đa cấp có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hàng hóa được tiếp thị và bán lẻ bằng phương pháp đa cấp hoặc chỉ là các doanh nghiệp phân phối hàng hóa do doanh nghiệp khác sản xuất - Người tham gia kinh doanh đa cấp được hiểu là những cộng tác viên trong việc tiếp thị, bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp cho dù họ được gọi với những tên gọi khác như đại lý, nhà phân phối độc lập, trực tiêu viên,... 4. Vai trò của Network Marketing - Kinh doanh đa cấp có thể đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng như mua được hàng trực tiếp từ nhà sản xuất nên tránh được hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng - Đối với doanh nghiệp, kinh doanh theo mạng tiết kiệm được chi phí quảng cáo, cắt giảm được hàng loạt các chi phí khác như chi phí thuê mặt bằng trưng bày, chi phí vận chuyển. Mặt khác, do mạng lưới phân phối được tổ chức để đưa hàng hóa trực tiếp đến người tiêu dùng nên có nhiều thuận lợi trong việc quảng bá hàng hóa một cách trực tiếp và hữu hiệu - Bên cạnh đó, kinh doanh theo mạng hay kinh doanh đa cấp còn tạo được nhiều việc làm cho xã hội vì cơ chế hoạt động của phương thức kinh doanh này không giới hạn số lượng người tham gia. 5. Giá trị Network Marketing Bạn đã tin vào kinh doanh theo mạng? Sau đây là những giá trị Network Marketing có thể đem lại cho bạn – những người khởi nghiệp. Là kinh doanh không cần dự trữ hàng hóa, không cần vay nợ chất đống. Là nơi cung cấp hàng hóa đến người dùng cuối cùng với giá hợp lí, tránh được đồ giả. Là một tổ chức phát triển không giới hạn. Là một hình thức kinh doanh bảo vệ quyền lợi người kinh doanh nhất. Là hình thức kinh doanh tiết kiệm vốn đầu tư với mức giá thấp nhất. Là nơi bạn làm đa nhiệm vụ người tiêu dùng, người quảng cáo, người tiêu thụ, người giúp người khác có cơ hội kinh doanh và là nhà kinh doanh. Trên đây, những giá trị Kinh doanh theo mạng mang lại sẽ giúp bạn có cơ hội hoàn thiện và phát triển bản thân. Quản lý bán hàng chuyên nghiệp - hiệu quả với - Tiết kiệm tối ưu chỉ với 8k/ngày 6. Các hình thức Network Marketing Phân loại theo tính chất - Kinh doanh đa cấp chân chính Là hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh đa cấp thể hiện đúng bản chất của nó. Đây là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp. - Kinh doanh đa cấp biến tướng Đây là hình thức kinh doanh đa cấp nhung mang mục đích thu lợi bất chính. Hình thức này yêu cầu người tham gia phải đặt cọc hoặc trả tiền mua một số hàng hóa hoặc trả một khoản tiển để tham gia mạng lưới bán hàng. Đồng thời, hình thức này cũng cung cấp thông tin gian dối, sai lệch về tính chất công việc và công dụng của hàng hóa, sản phẩm Phân loại theo phạm vi thực hiện - Kinh doanh đa cấp phạm vi quốc gia Đây là cách thức tổ chức kinh doanh đa cấp trong phạm vi địa lý của một quốc gia. Tại mạng lưới bán hàng chỉ được triển khai trong những người bán hàng ở một khu vực, một địa phương hay một khuôn khổ biến giới quốc gia - Kinh doanh đa cấp trong phạm vi quốc tế Mạng lưới bán hàng được trải rộng, vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Hàng hóa được phân phối mang tính quốc tế. Tìm hiểu thêm 4 loại hành vi của người tiêu dùng trong marketing 7. Những đức tính cần thiết trong Network Marketing Kinh doanh đa tầng dựa trên cốt lõi chính là mối quan hệ con người. Bạn là người có tính cách, cách suy nghĩ, cư xử như thế nào quyết định phần lớn thành công của bạn. Vì vậy, bạn nên rèn luyện cho mình 8 đức tính sau để phát triền con đường kinh doanh của mình Suy nghĩ tích cực Để làm bất cứ việc gì đều cần suy nghĩ tích cực. Hãy tin vào bản thân và tự nói rằng “Người khác thành công được thì mình cũng vậy”. Thành công chỉ đến khi bạn không né tránh khó khăn, mà đối diện vượt qua và rút ra những bài học có ích. Sẵn sàng học tập Hãy biết cách làm chủ lòng tự ái bản thân mà trau dồi, có tinh thần học hỏi. Lĩnh vực đòi hỏi bạn cần là người có ý chí nên hãy cứ mạnh dạn bước tới và học tập những người đỡ đầu, đã có kinh nghiệm. Nhiệt tình Bạn sẽ đạt được bất kì điều gì nếu như bạn chịu khó giúp người khác đạt được những cái người khác mong muốn. Trong Network Marketing, bạn nên đầu tư nhiều thời gian, nỗ lực, tiền bạc cho mạng phân phối của bạn để thu nhập cao hơn. Vì những người cùng mạng lưới chính là những người bạn trung thành và đồng nghiệp tin cậy của bạn. Vững vàng Bạn là người có bản lĩnh vững vàng, hãy sẵn sàng đối mặt với những tình huống xấu nhất. Không ai là không tránh khỏi những lời chỉ trích khi làm bất cứ việc gì. Vì vậy, bạn nên tự bảo vệ mình bằng cách tránh xa sự tiêu cực. Lạc quan Sự lạc quan đến từ sản phẩm của bạn có giá trị, hữu ích với mọi người nên hãy cứ mỉm cười, tận hưởng tối đa niềm vui mà công việc mang lại cho bạn. Cần cù Phần lớn những thành công đáng kể đều phải trải qua quá trình lao động và chỉ có vậy. Bạn đừng quá lo lắng khi chưa thành công. Có thể do bạn chưa đủ siêng năng? Khả năng tổ chức và phối hợp Giao việc phù hợp năng lực cho mỗi thành viên để khiến mạng lưới cảm nhận mình là một phần của cơ cấu. Hãy chỉ tự làm những việc mà chỉ có bạn mới làm được. Kinh doanh theo mạng đem lại hiệu quả cực lớn nếu bạn có những đức tính quyết định thành công 8. Những cạm bẫy nên tránh để thành công Một số người coi công việc Kinh doanh theo mạng chỉ là việc làm thêm nên rất dễ gây mất hứng thú với công việc, mất phương hướng khi mạng lưới mở rộng. Vì thế, hãy lên kế hoạch, quy định làm việc của mình và luôn tuân thủ theo. Ngại bán sản phẩm Cách duy nhất tạo thu nhập trong Kinh doanh theo mạng chính là lưu hành sản phẩm. Bạn càng hăng hái bán sản phẩm, bạn càng tạo được doanh số từ việc bán lẻ cho đến bán buôn. Không vững lập trường Không nên phí thời gian tranh luận với những người hoài nghi để cố thuyết phục tham gia vào mạng lưới với mình khi bạn chưa trang bị đủ kiến thức, sự tự tin cho cuộc gặp gỡ này. Tham dự các khóa huấn luyện và học tập trong công ty sẽ giúp bạn phản biện với những dự kiện chính xác. Có thể thấy, trong thế giới công nghệ điện tử hiện đại, Network Marketing là sự lựa chọn thông minh cho những doanh nhân start-up và cả lâu đời. Hơn nữa, những người kinh doanh hiểu rõ về mô hình mình dự định và đang làm sẽ tăng sự tự tin dẫn đến thành công. Hy vọng những kiến thức cơ bản về Kinh doanh theo mạng trên đây của sẽ có ích cho những định hướng của bạn. Nếu bạn có đang quan tâm đến phương pháp quản lý bán hàng hiệu quả thì hiện nay đang cung cấp phần mềm quản lý bán hàng đa kênh giúp quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hiệu quả được rất nhiều doanh nghiệp hàng đầu lựa chọn. Cuối cùng, chúc bạn luôn thành công! Kinh doanh theo mạng Online business là gì? Kinh doanh theo mạng tiếng Anh là Online business. Lịch sử ngành kinh doanh theo mạng?Các công ty theo mô hình kinh doanh theo mạng thường tạo ra các cấp nhân viên bán hàng – nghĩa là, nhân viên bán hàng được khuyến khích tuyển dụng mạng lưới nhân viên bán hàng của riêng họ. Những người tạo ra một cấp mới hoặc “tuyến trên” kiếm được hoa hồng trên doanh số bán hàng của chính họ và doanh số bán hàng của những người trong cấp họ đã tạo “tuyến dưới”. Theo thời gian, một cấp mới có thể mọc lên một cấp khác, đóng góp nhiều hoa hồng hơn cho người ở cấp cao nhất cũng như cấp giữa. Vậy quy định về kinh doanh theo mạng là gì, lịch sử ngành kinh doanh theo mạng được quy định như thế nào. Mạng là phần quan trọng của bất kỳ hành động nào được thực hiện trên thị trường. Peter Drucker thậm chí còn mô tả nền kinh tế tương lai là một trong những xã hội của các mạng lưới. Các công ty nhúng trong các mạng như vậy có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Kinh doanh theo mạng là một mô hình kinh doanh phụ thuộc vào việc bán hàng giữa người với người bởi các đại diện độc lập, thường làm việc tại nhà. Doanh nghiệp tiếp thị theo mạng có thể yêu cầu bạn xây dựng mạng lưới đối tác kinh doanh hoặc nhân viên bán hàng để hỗ trợ tạo khách hàng tiềm năng và chốt doanh số. Có rất nhiều hoạt động tiếp thị theo mạng có uy tín, nhưng một số đã bị tố cáo là kế hoạch kim tự tháp. Loại thứ hai có thể tập trung ít hơn vào việc bán hàng cho người tiêu dùng so với việc tuyển dụng nhân viên bán hàng, những người có thể được yêu cầu trả trước cho bộ dụng cụ khởi động đắt tiền. – Kinh doanh theo mạng thu hút những người có năng lượng cao và kỹ năng bán hàng vững vàng, những người có thể xây dựng một công việc kinh doanh có lãi với một khoản đầu tư khiêm tốn. Doanh nghiệp tiếp thị theo mạng có thể là một chương trình đơn cấp, theo đó bạn bán sản phẩm hoặc nhiều cấp, nơi bạn cũng tuyển thêm nhân viên bán hàng. Hãy cẩn thận với các công ty tiếp thị theo mạng tạo ra nhiều tầng lớp nhân viên bán hàng hoặc yêu cầu bạn mua trước các sản phẩm đắt tiền hoặc tài liệu đào tạo – và nghiên cứu kỹ lưỡng về công ty trước khi bạn tham gia. – Cách hoạt động của Kinh doanh theo mạng Tiếp thị theo mạng được biết đến với nhiều tên khác nhau, bao gồm tiếp thị đa cấp MLM, tiếp thị di động, tiếp thị liên kết, tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng, tiếp thị giới thiệu hoặc nhượng quyền kinh doanh tại nhà. Như vậy, thu nhập của nhân viên bán hàng phụ thuộc vào việc tuyển dụng cũng như bán sản phẩm. Những người đến sớm và ở cấp cao nhất sẽ tận dụng tối đa. – Ưu điểm và nhược điểm của Kinh doanh theo mạng Có một số kỳ thị gắn liền với hoạt động kinh doanh tiếp thị mạng, đặc biệt là những doanh nghiệp có nhiều tầng, có thể được coi là mô hình kim tự tháp – tức là, những nhân viên bán hàng ở cấp cao nhất có thể kiếm được số tiền ấn tượng từ hoa hồng từ các cấp dưới họ. Những người ở cấp thấp hơn sẽ kiếm được ít hơn nhiều. Công ty kiếm tiền bằng cách bán bộ dụng cụ khởi động đắt tiền cho những người mới tuyển dụng. Sự hấp dẫn của kinh doanh theo mạng là một cá nhân có nhiều năng lượng và kỹ năng bán hàng tốt có thể tạo ra một doanh nghiệp có lợi nhuận với một khoản đầu tư khiêm tốn. Một nguyên tắc chung, theo Ủy ban Thương mại Liên bang FCC, là một hoạt động đảm bảo bồi thường dựa trên doanh số bán hàng thực tế cho khách hàng thực có xu hướng có uy tín hơn so với các kế hoạch nhiều cấp, trong đó mọi người kiếm tiền dựa trên số lượng nhà phân phối mà họ tuyển dụng. Kinh doanh theo mạng tiếng Anh là Online business. 2. Lịch sử ngành kinh doanh theo mạng – Năm 1736, Leonhard Euler đã tạo ra lý thuyết đồ thị. Lý thuyết đồ thị mở đường cho các mô hình mạng như mạng không có quy mô của Barabási-Albert, mạng cơ hội như Paul Erdös và Alfréd Rényi, mô hình Erdős – Rényi, áp dụng cho lý thuyết đồ thị ngẫu nhiên và mạng thế giới nhỏ Watts & Strogatz, tất cả trong đó có thể được điều chỉnh để trở thành đại diện cho các chiến lược và hoặc các mối quan hệ trên thị trường. Đối với tiếp thị, phần lớn việc tạo ra các lý thuyết về hệ thống, cấu trúc và quản lý mạng lưới kinh doanh, có thể được cho là do các nhà kinh tế học thời kỳ đầu như John Common, Ronald Coase và Joseph Schumpter. John Commons, vào năm 1934, lấy ý tưởng từ các lĩnh vực luật, kinh tế và tâm lý học, và tập trung vào các giao dịch như một đơn vị phân tích thô sơ. Commons đã chỉ ra cách các thực thể kinh tế hợp nhất hình thành và phát triển để đối phó với các xung đột lợi ích cố hữu giữa các tác nhân và cách các tổ chức thống nhất kiểm soát các hành động cá nhân trong đó hạn chế và tạo điều kiện cho nó như thế nào. Joseph Schumpter, vào năm 1939, tập trung vào các quy trình cơ bản của các tổ chức công nghiệp và cách chúng đã chuyển đổi. Ông cho thấy cuộc chiến để tồn tại giữa các loại hình doanh nghiệp và mạng lưới khác nhau, cạnh tranh để phục vụ nhu cầu của xã hội, đã tạo nên sự thay đổi của lĩnh vực công nghiệp. Ronald Coase, vào năm 1937, đã đưa ra khái niệm chi phí giao dịch. Nghiên cứu của ông cho thấy sự phát triển của các ý tưởng về trao đổi và cụ thể hơn là chi phí của việc đảm bảo các thỏa thuận cũng như điều phối, kiểm soát và thực hiện chúng. Wilkinson cho biết ba nhà kinh tế này đã có ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát triển của các lý thuyết xoay quanh mạng lưới trong tiếp thị. – Những năm 1960 Các nghiên cứu trong khoảng thời gian này tập trung vào cấu trúc kinh tế của các kênh phân phối, xem xét nó từ một cái nhìn vĩ mô hơn. Một nghiên cứu quan trọng là của Cox, Goodman và Fichandler, được xây dựng dựa trên nghiên cứu trước đó của Stewart, Dewhurst và Field 1939 và kiểm tra sự phân phối trong một nền kinh tế cấp cao. Bert McCammon, vào năm 1963, đã làm phong phú thêm lĩnh vực này. Ông đã đúc kết từ các tài liệu trước đây của Schumpter và Coase, tập hợp các nghiên cứu và ý tưởng từ một số ngành khoa học hành vi khám phá các quá trình thay đổi xảy ra trong hệ thống kênh. Những phát triển khác được thực hiện trong những năm 1960 là một số mô hình hệ thống kênh. Các mô hình này được tạo ra để nghiên cứu nhiều tương tác đang diễn ra và cách chúng ảnh hưởng đến hiệu suất. Wilkinson đã trích dẫn các mô hình động lực công nghiệp của Forrester 1961 và các mô hình của Balderston và Hoggat 1962 về các quy trình thị trường làm khuôn khổ cơ bản cho việc tuân theo các mô hình hậu cần do Bowersox 1972 và các đồng nghiệp của ông phát triển. – Những năm 1970 Nghiên cứu vào khoảng thời gian này đã xem xét nhiều hơn các chiều hành vi của các kênh, phần nào là kết quả của các bài viết trước đó của Wroe Alderson. Những nỗ lực đầu tiên được thực hiện nhằm cải thiện các mô hình khái niệm điển hình về quan hệ giữa các công ty vào cuối những năm 1970. Những phát triển chính được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu như Robicheaux. Ngoài ra, cuốn sách giáo khoa về kênh tiếp thị đầu tiên đã được tạo ra tại Malled vào năm 1976. Nghiên cứu trong thập kỷ này rất khó trong đó các nghiên cứu được coi là không thành công nếu xung đột và quyền lực không có mặt. Các nhà nghiên cứu hàng đầu tập trung vào ngành công nghiệp xe hơi và mối quan hệ bên nhượng quyền – bên nhận quyền là xung đột và quyền lực có nhiều khả năng xảy ra. – Những năm 1980 Khi những năm 1980 bắt đầu, một kỷ nguyên khác của nghiên cứu về mạng và các kích thước hành vi của nó cũng bắt đầu. Một nghiên cứu quan trọng của Phillips, vào năm 1981, đã thách thức vấn đề của những người cung cấp thông tin khác nhau trong nghiên cứu mối quan hệ giữa các công ty. Phillips cho rằng nhận thức về mối quan hệ khác nhau giữa những người cung cấp thông tin khác nhau trong một tổ chức. Đặt câu hỏi về tính hợp lệ của nhiều nghiên cứu được thực hiện trong những năm trước đó. Nó cũng chỉ ra rằng quan hệ giữa các tổ chức liên quan đến quan hệ cá nhân cũng như kinh doanh và tương tác giữa nhiều người trong một công ty. – Những năm 1990 Văn học khoảng những năm 1990 tập hợp một số truyền thống nghiên cứu. Đây là khi các lý thuyết khác nhau như tiếp thị mối quan hệ trong thị trường công nghiệp và thị trường tiêu dùng xuất hiện. Mối liên hệ giữa tiếp thị dịch vụ với việc phân tích các mối quan hệ và mạng lưới đã xuất hiện. Người ta cũng tập trung nhiều hơn vào hợp tác thay vì các mối quan hệ cạnh tranh, điều này gây ra sự bùng nổ lợi ích trong khu vực các mối quan hệ và mạng lưới. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu bắt đầu hướng nỗ lực nhiều hơn vào các kích thước mạng, trái ngược với mối quan hệ dyadic cô lập. Hơn nữa, công nghệ mới đã được sử dụng trong nghiên cứu mạng lưới kinh doanh, cho phép giải quyết các vấn đề cụ thể. Những phát triển được thực hiện trong vài thập kỷ qua, chứng minh sự phát triển của các khái niệm và mô hình có từ trước liên quan đến mạng lưới trong tiếp thị, được đề xuất lần đầu tiên vào những năm 1950 và 60. Wilkinson nói rằng điều cần thiết bây giờ là áp dụng các kỹ thuật mô hình hóa để mô tả mạng lưới trong tiếp thị, nhằm củng cố các lý thuyết hiện tại với bằng chứng thực nghiệm. – Những năm 2000 đến nay Nhiều nghiên cứu khác nhau đã sử dụng một số phương pháp để nghiên cứu mạng lưới kinh doanh. Một nghiên cứu như vậy do Aino Halinen và Jan-Åke Törnroos thực hiện, đã xem xét cách mạng được cấu tạo và cách chúng hoạt động trong thế giới hiện đại. Cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc sử dụng các nghiên cứu điển hình như một phương pháp đo lường. Một nghiên cứu quan trọng khác, do Jun, Kim, Kim, & Choi thực hiện, đã mô hình hóa các lượt giới thiệu của người tiêu dùng thông qua việc sử dụng một mạng lưới thế giới nhỏ. Chứng minh rằng mô hình mạng Thế giới nhỏ của Watts & Strogatz có thể được điều chỉnh để giải thích mối quan hệ tuyến tính ban đầu giữa các công ty và người tiêu dùng, và sự phát triển tiếp theo của nó thể hiện các đặc tính của thế giới nhỏ. Ngoài ra, một nghiên cứu của Lorenzo Bizzi & Ann Langley 2012 đã xem xét các lựa chọn quan trọng, liên quan đến phương pháp luận, được các nhà nghiên cứu đáp ứng khi xem xét động lực mạng. Kinh doanhDoanh nghiệp Thứ ba, 6/6/2023, 0704 GMT+7 Sau hai năm thua lỗ, lợi nhuận Tổng công ty Du lịch Sài Gòn Saigontourist phục hồi lên gần 294 tỷ đồng, mức thấp nhất trong những năm báo lãi. Báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán của Saigontourist ghi nhận hơn tỷ đồng doanh thu, tăng khoảng 3,6 lần so với năm 2021 - giai đoạn đỉnh dịch. Doanh thu hoạt động tài chính cũng tăng hơn 26% so với cùng kỳ. Doanh nghiệp này đang có gần tỷ đồng tiền và các khoản tương đương, tăng hơn gấp này, Saigontourist còn ghi nhận hơn 160 tỷ đồng lãi từ 30 công ty liên doanh, liên kết. Trong khi nhóm này từng là gánh nặng khi lỗ mức tương đương vào năm lại, doanh nghiệp này có lợi nhuận sau thuế khoảng 294 tỷ đồng, thoát lỗ sau hai năm kinh doanh dưới giá vốn. Tuy nhiên cả doanh thu và lợi nhuận năm 2022 đều ở mức thấp nhất trong những năm Saigontourist báo lãi kể từ khi công bố thông thư gửi cán bộ nhân viên đầu năm, ban lãnh đạo cho biết kết quả kinh doanh "đang trên đà phục hồi rất tích cực" với tổng lượng khách trong năm 2022 tăng 178%, nộp Ngân sách Nhà nước tăng 43%. Ngoài khối du lịch - lữ hành, Saigointourist cũng có thêm nguồn thu lớn từ tổ chức nhiều sự kiện quy mô là một trong những tập đoàn du lịch đa dịch vụ hàng đầu tại Việt Nam, thành lập từ năm 1975, do UBND TP HCM quản lý. Giai đoạn trước, doanh nghiệp này luôn báo kết quả lợi nhuận nghìn tỷ đồng. Công ty này được biết đến nhiều nhất với thành viên Công ty TNHH MTV Dịch vụ Lữ hành Saigontourist. Đây là đơn vị lữ hành trong nhóm dẫn đầu cả nước, kinh doanh tốt cả du lịch nội địa và quốc mảng lưu trú, Saigontourist đang sở hữu và quản lý hơn 50 khách sạn và khu nghỉ dưỡng trên cả nước với trên phòng ngủ. Trong đó, doanh nghiệp này có nhiều khách sạn nổi tiếng như Continental, Majestic, Grand, Rex, Caravell Saigon, New World, Sài Gòn - Morin Huế... Hầu hết đều có lịch sử lâu đời, nằm tại các tuyến phố sầm uất nhất thành phố và có tình hình kinh doanh ổn lưu trú và lữ hành, Saigontourist còn kinh doanh trong lĩnh vực ẩm thực, giải trí và đào tạo... Doanh nghiệp này nắm 60% vốn của Công ty liên doanh Hội chợ triển lãm Sài Gòn SECC, 50% vốn Truyền hình cáp Saigontourist, sở hữu Trường trung cấp Du lịch và Khách sạn Saigontourist... Khách sạn Rex quận 1, TP HCM - một trong những khách sạn nổi tiếng thuộc Saigontourist. Ảnh Rex Hotel Tính chung trong năm ngoái, ngành du lịch phục hồi mạnh sau giai đoạn giãn cách với đóng góp lớn từ sự bùng nổ của thị trường nội địa. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Du lịch, lượng khách nội địa cả năm đã đạt 101,3 triệu lượt, tăng 168% so với mục tiêu 60 triệu và vượt con số của 2019. Trong khi đó, khách quốc tế lại nhỏ giọt, cả năm chỉ đón hơn 3,6 triệu lượt, vỡ kế hoạch đón 5 triệu khách du lịch nước ngoài đề ra. Nguyên nhân được cho là chính sách visa chưa mới, ít sản phẩm nổi bật, mức độ sẵn sàng chưa nay, ngành du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đón 110 triệu lượt khách, trong đó khoảng 102 triệu khách nội địa và 8 triệu lượt khách quốc tế. Tổng thu từ du lịch tỷ đồng. Báo cáo của HSBC vào đầu tháng 2 nêu quan điểm, ngành du lịch năm nay nhiều triển vọng, nhất là khi Trung Quốc mở cửa. Đơn vị này cho rằng, du lịch sẽ là một ngành then chốt cho kinh tế Việt Nam năm Đạt Những ký ức doanh thương từ thời cổ đạiLà một dân tộc có lịch sử lâu đời, người Việt xưa phát triển kinh tế hàng hoá rất sớm ngay từ hậu kỳ Đồ đá mới Hoa Binh – Neolithic, đến thời Thần Nông đã có nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Xét về lịch sử, không phải Việt Nam không có nền Nông-Công-Thương. Giới nghiên cứu lịch sử gần đây đồng ý rằng câu chuyện về ông Mai An Tiêm - thương gia tiêu biểu trong lịch sử Văn Lang hoàn toàn có thật, nói lên bản lĩnh khai mở thị trường và xây dựng thương hiệu của doanh nhân thời cổ cạnh đó, những con đường thương mại nổi tiếng thế giới như Con Đường Tơ Lụa phía Bắc và con đường “Trà Mã Cổ Đạo” phía nam đều có dấu ấn sản phẩm và kinh doanh từ nước Việt cổ. Đặc biệt, con đường buôn trà cổ xưa có một nhánh quan trọng kết nối từ Bắc Việt lên biên giới ở huyện Mạn Hảo, xưa thuộc tỉnh Cao Bằng Đại Nam, nay thuộc tỉnh Vân Nam Trung Hoa; sang Tứ Xuyên rồi qua Tây Tạng. Sản phẩm Tơ-Lụa cũng có xuất xứ từ địa bàn Bách Việt và Lạc Việt vua An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc có ngài Cao Lỗ chế tác ra nỏ thần đã làm khiếp sợ quân Tần và trong cuộc chiến với Triệu Đà; đó là một kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất thời bấy về công nghiệp, ông Hồ Nguyên Trừng là một công trình sư lỗi lạc những năm đầu thế kỷ XV, được coi là ông tổ nghề đúc súng thần công của cả Việt Nam và Trung Quốc. Ông Nguyễn An là tổng công trình sư của Tử Cấm Thành Bắc Kinh cùng thợ lành nghề của Việt Nam bị bắt sang Trung Quốc. Chiến thuyền của Đại Việt là một đội thuỷ binh hùng mạnh đã làm khiếm đảm quân Mông – Nguyên. Trong thời kỳ khai phá Đàng Trong của các Chúa Nguyễn cũng có sự tham gia của gia tộc Mạc Cửu là người gốc Minh Hương sang lập nghiệp khai phá đất Hà Tiên ở miền Tây vào đầu thế kỷ XVIII. Một gia tộc Minh Hương khác có thể kể đến là Chú Hoả ở Sài nhà Nguyễn, các sỹ phu như Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện là những người đã kết nối và đề xuất giao thương với châu Âu và châu Mỹ. Các nhân sỹ này đã tích cực tham mưu chính sách thương mại cho quốc gia. Những thương cảnh Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An… một thời vang danh khắp thế giới. Đặc biệt, chí sĩ Phan Châu Trinh là một trong những người khai mở dân trí, lấy doanh thương làm chủ đạo để thực hiện sứ mệnh chấn hưng dân tộc. Liên Thành Thương Quán ra đời sớm từ đầu thế kỷ XX cũng là một ví dụ tiêu biểu cho lịch sử các nhà yêu nước gây dựng cơ sở kinh tài, chấn hưng dân khí và đóng góp ngân sách cho hoạt động cách mạng. Đây còn có thể nói là mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân đầu tiên của Việt Nam hiện đại, vượt lên cả mô hình doanh nghiệp gia đình, với mạng lưới phân phối cả nước và mang sản phẩm đi đấu xảo tại Pháp. Có thể nhắc tên ông Hồ Tá Bang cùng các đồng chí trong phong trào Duy Tân đã khởi lập một chuỗi cơ sở kinh doanh Liên Thành và nhà máy sản xuất nước mắm ở Phan Thiết và Sài Gòn, hiện thực hoá tinh thần chấn hưng dân tộc của chí sĩ Phan Châu hình này đã được truyền lại cho nhiều doanh nhân khác trong những thập niên 1940 đến 1970. Thậm chí sau năm 1975, Chủ tịch HĐQT là ông Huỳnh Văn Dậu đã đồng ý hiến Công ty cho Nhà nước và trải qua thăng trầm thương hiệu Nước mắm Liên Thành vẫn được duy trì theo hình thức cổ phần hoá và phát triển cho đến ngày nay. Trong thời Pháp thuộc, chúng ta đã có các doanh nhân Việt tiêu biểu như ông Bạch Thái Bưởi và Trịnh Văn Bô ở miền Bắc. “Vua tàu thuỷ” Bạch Thái Bưởi sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng đã vươn lên trở thành một trong bốn người giàu có nhất Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Ông đã đánh bại các nhà tư bản Pháp và thương nhân Trung Quốc, tạo bước chuyển biến lớn mang tầm quốc gia, dân tộc với tinh thần “Người Việt Nam đi tầu Việt Nam”.Kế thừa uy tín và cơ nghiệp của cha, nhờ cần cù, cẩn thận và tiết kiệm, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô đã nhanh chóng phát triển hiệu buôn Phúc Lợi để từ những ngày khởi nghiệp chỉ có 30 ngàn đồng Đông Dương trở thành nhà tư sản lớn thời bấy giờ. Đầu năm 1945, vợ chồng đại gia Trịnh Văn Bô đã ủng hộ 1 vạn đồng Đông Dương tương đương 25 cây vàng cho Mặt trận Việt Minh, khởi đầu sự nghiệp đóng góp tài chính cho cách mạng qua nhiều giai đoạn. Ngoài số vàng ủng hộ chính quyền cách mạng, ông bà còn hiến cả ngôi nhà 48 Hàng Ngang, để làm Nhà lưu niệm, ghi dấu tích nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo Tuyên ngôn Độc loạt nhà tư bản đầu tiên ở Nam kỳ cũng xuất hiện, tiêu biểu như gia đình ông Huyện Sỹ là ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, một trong tứ đại hào phú đất Sài Gòn xưa. Đó cũng là thời điểm mà xuất khẩu gạo của Nam kỳ lên tới hàng triệu tấn mỗi năm. Các đại điền chủ hàng đầu của Nam Bộ có diện tích canh tác lên đến hàng vạn thời công nghiệp hoáMột số gia tộc đã chuyển giao kế nghiệp thành công cho nhiều thế hệVào thập niên 1930, thương hiệu xà bông Cô Ba – xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam do doanh nghiệp của ông Trương Văn Bền sản xuất nức tiếng một thời đã đẩy lùi xà bông Marseille và hàng loạt mặt hàng xà bông khác nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp và phương thức quảng cáo độc đáo. Ông Trương Văn Bền là một đại tư bản tiêu biểu của Sài Gòn thời bấy khi sang Pháp vào năm 1948, các con của ông ở Việt Nam tiếp tục sự nghiệp. Ông Trương Khắc Trí làm Tổng giám đốc Công ty xà bông Việt Nam từ 1959 tới 1965. Ông Trương Khắc Huệ đảm nhiệm chức vụ này cho đến 1970. Người con trai út là Trương Khắc Cần quản lý công ty đến năm 1975. Sau năm 1975, Công ty của ông Bền và các con trở thành Nhà máy hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Mãi đến năm 1995 mới được giao cho Nhà nước tiếp quản và liên doanh với tập đoàn Procter & Gamble Mỹ. Bên cạnh đó, nổi bật có đại gia Nguyễn Tấn Đời tiêu biểu trong ngành bất động sản của Sài Gòn, khởi phát từ cơ hội xây dựng các toà nhà cho quân đội Mỹ thuê vào những năm 1960. Toà nhà to nhất Sài Gòn lúc đó - khách sạn 13 tầng President Hotel chung cư 727 Trần Hưng Đạo cũng do doanh nghiệp ông Nguyễn Tấn Đời xây thời kỳ này, ở miền Nam đã hình thành vài chục nhà tư bản, một số có đóng góp thiết thực cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam khi lập nên các cơ sở kinh miền Bắc, các gia tộc kinh doanh thời điểm này cũng trải qua những khoảng lặng buồn với lịch sử khá đen tối trong giai đoạn đánh cải cách ruộng đất thời 1953-1956 đã khiến một số gia tộc biến mất. Ở miền Nam đến đợt đánh tư sản từ 1975 - 1980 cũng chứng kiến sự ra đi của một loạt gia tộc kinh doanh. Trong ngành tài chính ở Sài Gòn, có khoảng 10 ngân hàng đầu tiên hoạt động bài bản, chuyên nghiệp và là mạch máu lưu thông kinh tế tư bản miền Nam như Sài Gòn Thương Tín, Việt Nam Thương Tín... Giới ngân hàng đã hoạt động rất bài bản từ thập niên 60, 70. Khá nhiều doanh nhân Sài Gòn đã ở lại Việt Nam, cùng đất nước trải qua giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế 1975-1989. Tiêu biểu như gạch bông Đức Tân của vợ chồng ông Đinh Hồng Kỳ và bà Võ Liên Hương, gạch bông Đồng Tâm của doanh nhân Võ Quốc Thắng, nhựa Phát Thành của ông Lê Văn Thành với thương hiệu Fataco nổi tiếng một thời, hay hãng sơn Bạch Tuyết do ông Bùi Duy Cận sáng lập. Nhóm Thứ Sáu ở Sài Gòn tập trung nhiều trí thức và doanh nhân đóng góp cho chính sách Đởi Mới của ông Võ Văn ngành dược, một thương hiệu gia tộc tiêu biểu may mắn tồn tại đến ngày hôm nay cũng là hãng dược đầu tiên của miền Nam – Hãng dược OPV do Gia đình ông Nguyễn Cao Thăng, bà Hà Trương Bích Tuý là những doanh nhân trí thức gốc Huế khởi lập. Từ một cửa hàng bán thuốc được thành lập vào năm 1950 tại Huế, OPV đã trở thành công ty dược phẩm lớn nhất Việt Nam trong những năm 1970 và là đơn vị cấp phép độc quyền cho cả kinh doanh và sản xuất cho những công ty dược phẩm đa quốc gia đứng đầu thế giới như Bayer, Ciba Geigy, Mead Johnson, Roche, Sandoz,... Trong suốt quãng thời gian đó, OPV đã xây dựng nhà máy sản xuất dược phẩm quy mô, hiện đại bậc nhất; và trở thành đối tác cùng tập đoàn Nestle xây dựng nhà máy sữa dành cho trẻ em tại Việt Nam. Đến năm 1975, gia đình OPV di cư sang Mỹ, để lại hai nhà máy cho chính quyền cách mạng. Ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận vào năm 1994, OPV chính thức trở lại Việt Nam và vẫn đang là doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành dược Việt miền Bắc, trong giai đoạn khó khăn vào những năm 1980 cũng có một số doanh chủ từng bước gây dựng cơ nghiệp. Một trong số đó là Công ty đầu tư CP khách sạn Oasis của ông Trương Hữu Thắng Thắng Doa là một trong những người khai thác đá quý đầu tiên; ông sở hữu một trong những khách sạn tư nhân đầu tiên ở Hà Nội. Ông Nguyễn Hữu Đường, được mệnh danh là Vua Bia, là doanh nhân thành đạt ngay từ thời bao cấp. Ông Đường hiện là Chủ tịch Tập đoàn Hòa Bình với các công trình bất động sản dát vàng như tòa tháp đôi Hòa Bình Somerset, Hòa Bình Green City hay Hà Nội Golden Lake. Không thể không kể đến ông Trần Văn Sen ở Thái Bình là một doanh nhân bươn chải từ thời bao cấp và thành công đến ngày hôm nay khi dẫn dắt Tập đoàn Hương Sen nổi tiếng với thương hiệu Bia Đại Việt. Ông Sen là hậu duệ của nhà Trần danh gia vọng tộc, là hậu duệ chính dòng của thái sư Trần Thủ Độ. Cần phải nhắc đến cụ Trần Văn Tuân, ông nội của ông Sen, là người đã có công thiết lập quan hệ buôn bán với các thương gia nước ngoài từ năm 1937. Đại gia đình ông Trần Văn Sen hiện là một tập đoàn kinh tế dẫn đầu của tỉnh Thái Bình. Đầu thời kỳ Đổi Mới, Việt Nam xuất hiện một thế hệ doanh nhân mới phát triển đến ngày hôm nay. Tiêu biểu như ông Trương Gia Bình là người anh cả của thế hệ doanh nhân ở miền Bắc và ông Phạm Phú Ngọc Trai là anh cả của doanh nhân trẻ Sài Gòn. Họ đều là những doanh nhân tiêu biểu đầu tiên của thời kỳ đổi mới kinh tế và hội nhập, có uy tín và bền vững về tính gia tộc khi có con trai đang kế tục sự nghiệp một cách vững chắc. Các đại gia tiêu biểu khác gồm có gia đình ông Trần Quý Thanh, nhà sáng lập Tân Hiệp Phát là doanh nghiệp đứng đầu ngành nước giải khát của Việt Nam và luôn đứng vững trong cuộc cạnh tranh với các thương hiệu ngoại như Coca-Cola và Pepsi. Những ái nữ nhà Trần Quý Thanh gồm Trần Uyên Phương và Trần Ngọc Bích được đánh giá là tiêu biểu trong việc kế thừa thành công doanh nghiệp của gia kỷ niệm 1 năm thành lập Câu lạc bộ Thương hiệu ViệtHai anh em gốc Hoa là ông Trần Kim Thành và Trần Lệ Nguyên cùng sáng lập nên Tập đoàn KIDO - đế chế bánh kẹo lớn nhất Việt Nam chỉ từ một tiệm bánh nhỏ của gia đình. Ông Đặng Văn Thành là người đã sáng lập ngân hàng Sacombank và hiện là ông chủ của “đế chế” Tập đoàn Thành Thành Công TTC Group; Đặng Hùng Anh, con trai của ông Thành hiện là lãnh đạo Trung ương Hội doanh nhân trẻ Việt các tập đoàn thành đạt và ổn định hiện nay còn phải kể đến Tập đoàn Thaco và tỷ phú đô la Trần Bá Dương, doanh nhân xuất thân từ một gia đình nho giáo gốc Huế. Có thể nói, văn hoá của Thaco chịu ảnh hưởng rất nhiều từ dấu ấn tính cách cá nhân của người sáng lập. Đặc biệt, yếu tố quan trọng nhất tạo ra sự thành công trong sự nghiệp kinh doanh của ông Dương nói riêng và Thaco nói chung là sự ủng hộ tuyệt đối và thực tâm từ gia đình. Các gia tộc này sau giai đoạn thành đạt hiện đang bước sang giai đoạn chuyển giao thế hệ, và duới góc độ quản trị là một đề tài nghiên cứu quan trọng. Dù vậy, cũng có các gia đình không suôn sẻ trong việc phát triển thế hệ, ngay mối quan hệ vợ chồng đã không hoà hợp lẫn nhau, đơn cử là gia đình Cà phê Trung Nguyên. Tương tự Cà phê Trung Nguyên là gia đình Bánh ngọt Đức Phát. Tuy nhiên sau khi chia tay, ông Kao Siêu Lực cùng các con vẫn cố gắng gây dựng và phát triển thương hiệu mới ABC Bakery, thương hiệu Đức Phát để lại cho vợ. Không những thế, ông vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ kinh doanh với cửa hàng của vợ cũ cho đến khi bà xây dựng xưởng mới và ổn định nhân lại trường hợp Trung Nguyên, diễn biến sự việc quá ồn ào, cho thấy mặt trái của một số doanh nghiệp gia tộc thiếu kinh nghiệm quản lý và ứng xử trong nội bộ gia đình. Đây chưa phải là tình huống duy nhất trong số các gia tộc kinh doanh ở Việt Nam. Quản trị doanh nghiệp gia đình theo xu hướng của thế giớiỞ Đông Nam Á, đặc biệt là các trường đại học ở Singapore từ lâu đã đưa đề tài nghiên cứu quản trị doanh nghiệp gia đình vào chuyên ngành chủ đạo vì đó là nếp văn hoá tiêu biểu của Đông Nam Á, nhất là các gia đình theo đạo Khổng. Một khó khăn chung được rút ra là các doanh nghiệp này gặp nhiều vấn đề trong quá trình chuyển giao thế hệ quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là việc nghiên cứu một mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp với các gia tộc trong bối cảnh công ty đại chúng. Ở Việt Nam cũng vậy, nhiều năm trước đã đặt ra đề tài quản trị doanh nghiệp gia đình để nghiên cứu cũng như đưa ra các hướng hỗ trợ. Giới chuyên gia trong nước đã chỉ ra những khó khăn trong vấn đề quản trị và chuyển giao thế hệ của các tập đoàn kinh tế Nhà nước và tư nhân, từng bước đưa ra các mô hình quản trị doanh nghiệp corporate governance phù hợp trong bối cảnh mới như mô hình vốn, sở hữu, điều hành, cổ phần…Các thực thể doanh nghiệp, công ty, tập đoàn…trên thế giới thực ra xuất phát từ khái niệm Khế ước Xã hội social contract của các nhà triết học phương Tây tiền bối như Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu Pháp, và John Locke Anh tiêu biểu của Kỷ ánh sáng. Khái niệm này ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành Hiệp chủng quốc Hoa kỳ và các mô hình Công ty hiện đại. Khế ước Xã hội là nền tảng hình thành hai thực thể quan trọng của xã hội hiện đại là Tam quyền phân lập Mỹ đối với quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp theo mô hình Công ty đại chúng. Đó là bản chất công ty mà các doanh nghiệp gia tộc Việt Nam cần học hỏi trong việc hình thành một mô hình công ty hài hoà giữa gia đình và công chúng, giữa tư hữu gia tộc và nhân tài xã Nhật trải qua gần 200 năm lịch sử doanh nghiệp gia tộc từ mô hình Zaibatsu nặng về tư tưởng phong kiến và đã cải tiến thành Keiretsu học hỏi từ các mô hình doanh nghiệp phương Tây kết hợp trong bối cảnh văn hoá Nhật Bản để gia tăng tinh thần dân chủ trong mối quan hệ làm việc. Các Chaebol của Hàn Quốc cũng học hỏi từ Nhật nghiệp vốn dĩ xuất phát từ khế ước xã hội’. Sự ảnh hưởng của đạo Khổng trong việc công ty xem người làm là đầy tớ ở các nước Á Đông cần được xoá bỏ và thực sự đang được xoá bỏ, kể cả tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Đặc biệt, Singapore là quốc gia văn minh nhất, mô hình quản lý nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp đều theo mô hình công ty đại chúng. Ngoài mức lương cao thì các thành viên Chính phủ còn được tiền thưởng từ hiệu quả quản trị ngân sách nhà nước và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Tuyên ngôn Độc lập của cả Việt Nam và Mỹ đều nhắc đến “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” lấy lại và chỉnh sửa từ Luận điểm nổi tiếng của triết gia John Locke là Life quyền sống, Liberty quyền tự do và Posession quyền tư hữu. Đó được xem là mẫu số giá trị chung của kinh tế tư bản tư thể kỳ vọng gì với gia tộc doanh nhân Thương hiệu Biti’s của gia tộc doanh nhân Vưu Khải Thành hiện cũng đang trong một quá trình chuyển đổi thế hệ khá suôn sẻ và mang lại những ý tưởng mới. Điển hình là chiến dịch sản phẩm thương hiệu mới Biti’s Hunter do thế hệ mới là ái nữ Vưu Lệ Quyên hiện đang phát triển rất thành công. Nhờ đó, những doanh nhân thế hệ trước như ông Vưu Khải Thành hoàn toàn có thể mãn nguyện. Tiêu biểu như công ty gia đình Tân Hiệp Phát trong giai đoạn đầu tiên của thời kỳ chuyên nghiệp hoá sau năm 2000 vẫn còn có chủ trương phát triển không bền vững khi có ý đồ bán công ty. Nhưng sau một thời gian, đích thân chủ doanh nghiệp nghiệm ra rằng phát triển doanh nghiệp không phải vì mục đích tài chính mà vì những mục đích sâu sắc hơn là thương hiệu, danh dự và truyền thống gia đình. Để doanh nghiệp là nơi giáo dục các thế hệ sau về giá trị của đồng tiền, tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn người và đóng góp cho xã hội. Kể từ đó Tân Hiệp Phát trở thành một tập đoàn gia đình nhưng cũng từng bước có các chính sách đãi ngộ đối với nhân sự bên ngoài. Ở Hà Nội, gia đình họ Đỗ là đại gia nổi tiếng ba đời làm doanh nhân. Có máu kinh doanh từ thời trẻ, cụ Đỗ Thế Sử vẫn quyết lập công ty may mặc Gamexco ở tuổi 73. Con thứ ba trong số 11 người là giáo sư tiến sỹ và doanh nhân con trai của cụ Sử là ông Đỗ Minh Phú, người gây dựng thương hiệu Diana và sau này đầu tư vào Tienphong Bank và Tập đoàn DOJIÔng Đỗ Anh Tú, người con thứ sáu trong Đỗ Gia là Tổng giám đốc Diana và Phó chủ tịch HĐQT TPBank. Một người con khác của cụ Sử là ông Đỗ Anh Dũng Chủ tịch tập đoàn Tân Hoàng Minh. Thế hệ thứ ba của gia tộc này cũng đang tham gia mạnh mẽ vào quá trình quản trị doanh nghiệp của gia đình. Nối tiếp truyền thống gia đình doanh nhân danh gia bậc nhất Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng, người con trai áp út của ông Trịnh Văn Bô là ông Trịnh Cần Chính đã khởi mở trở lại “con đường kinh doanh” của gia đình sau sau hơn 60 năm đứt quãng khi trở thành Tổng giám đốc Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Thăng Long Việt Nam và đang định hướng cho con gái kế nghiệp. Gia đình Alphanam của ông Nguyễn Tuấn Hải thuộc lứa doanh nghiệp trẻ đầu tiên của Hà Nội cũng là một ví dụ thành công và quá trình chuyển giao thế hệ cũng diễn ra rất tốt đẹp với hai người con đang nối nghiệp cha là Nguyễn Ngọc Mỹ và Nguyễn Minh Vũ Minh Châu, người sáng lập Công ty Vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu là một doanh nhân thành đạt nhất nhì Hà Nội và hiện vẫn là doanh nghiệp kim hoàn, vàng bạc đá quý số 1 miền Bắc. Ông Châu là một doanh nhân đại gia rất căn cơ’, là người ngồi trên đống vàng’… nhưng có lối sống rất lành mạnh, yêu thiên nhiên và nghệ thuật. Bảo Tín Minh Châu đang chuyển giao thế hệ rất vững chắc và thế hệ kế tiếp như anh Richard Vũ cũng đang tự tin kế tục sự nghiệp của gia đình với những tư duy phát triển và chiến lược mạnh mẽ chuyên nghiệp, luôn biết học hỏi các mô hình kinh doanh hiện đại của thế giới từng bước áp dụng vào sự mở rộng đế chế kinh doanh của Gia tộc. Đây là doanh nghiệp tiêu biểu của Văn hoá Hà Nội mang phong cách quý tộc. Có thể nói, đây đều là những doanh nhân tiêu biểu trong một gia tộc bề thế kết hợp giá trị của kinh doanh và giá trị của tri thức và đạo đức gia đình. Bên cạnh đó, có khá nhiều doanh nhân tiêu biểu rất thành công dù chưa hình thành yếu tố gia tộc’ như tỷ phú tự thân Nguyễn Phương Thảo của Vietjet Air, tỷ phú Trần Đình Long của Hoà Phát, ông Đỗ Quang Hiển bầu Hiển của Tập đoàn T&T, bà Thái Hương của Tập đoàn TH, bà Nga của BRG. Riêng về sự nghiệp lừng lẫy của Bà Tư Hường Khánh Hoà rất tiếc gần đây xảy ra sự tranh chấp giữa chồng và các con sau khi bà vừa mất, là một chuyện ngoài sự mọng đợi của giới doanh nhân, nhất là với cổ đông của ngân hàng Nam Á Bank và ảnh hưởng đến uy tín gia cùng, xin lấy bối cảnh một gia đình là thương hiệu Cà phê Nhân ở Hà Nội như một lời nhắn nhủ. Nếu mười thành viên của thương hiệu Cà phê Nhân lâu đời của Hà Nội biết hợp sức và đoàn kết, thì có lẽ giờ đây đã có một Tập đoàn Cà phê Nhân hùng mạnh không kém Trung Nguyên sau này và các tập đoàn kinh tế khác. Đó là điều chúng tôi trăn trở trong văn hoá thương hiệu của các gia tộc ở Việt Nam. Sự đoàn kết là yếu tố quyết định giữa các thành viên và thế hệ trong gia tộc, giữa công ty và quan hệ đại chúng như tinh thần của “khế ước xã hội”. Và chúng ta kỳ vọng các thương hiệu gia tộc sẽ đóng vai trò chủ chốt của nền kinh tế, không chỉ thành công ở Việt Nam mà còn vươn ra chinh phục thị trường quốc tế như Hàn Quốc và Nhật Bản đã làm được. * Chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quang có nhiều kinh nghiệm phân tích các mô hình quản trị, điều hành doanh nghiệp và tham vấn chính sáchBài viết đã được đăng tải trên ấn phẩm đặc biệt DOANH NHÂN VIỆT VÌ MỘT VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG. Để đặt mua đặc san, xin liên hệ Toà soạn Nội Tầng 7, tòa nhà HCMCC số 249A Thụy Khuê, quận Tây HồĐiện thoại 024 3244 4359TP. HCM 102D Lê Thị Riêng Lầu 6, phường Bến Thành, Quận 1Điện thoại 08867 08817

lịch sử kinh doanh theo mạng ở việt nam